Gia Cát Lượng là Thừa tướng nước Thục, cả đời cúc cung tận tụy, thậm chí khi biết bản thân không thể sống lâu được nữa, ông đã viết lại binh thư, kế sách, dặn dò di ngôn, chỉ vì muốn quân Thục có thể an toàn bảo trì lực lượng. Trước khi qua đời, Gia Cát Theo cách nói của ông Lý Hồng Chí, Gia Cát Lượng chính là người có công năng túc mệnh thông rất cao thâm, ông đã thông qua công năng mà nhìn thấy trước quy luật biến hóa của thiên thể sau 1,000-2,000 năm, rồi ông viết ra các câu ẩn đố dựa trên kết quả đã đoán biết Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, chiến lược Bắc phạt diệt Tào Ngụy vẫn được đệ tử của ông tiếp nối. Bài viết xuất bản sáng sớm ngày 24.12 sẽ làm rõ về danh tướng được Gia Cát Lượng tin tưởng lựa chọn làm người kế tục, tiếp tục sự nghiệp thống nhất Trung Hoa. Công Nguyên năm 228, Gia Cát Lượng Bắc phạt lần đầu, ông chia quân làm hai đạo tiến công, một bên ở Tả Cốc bày nghi binh nhằm thu hút sự chú ý của Tào Chân, một bên khác tự mình dẫn quân, dự định công chiếm Kỳ Sơn, nhưng Tào Chân vừa nhìn đã biết Gia Cát Lượng Dưới góc độ Tử vi học, sở dĩ Gia Cát Lượng có tài hô phong hoán vũ nhưng lại phải chết ở tuổi 54 là vì cung mệnh vô chính diệu. Bạn đang xem: Vì sao gia cát lượng không thọ được tới 60. Sự nghiệp dang dở OPEC+ cắt sản lượng dầu, nghị sĩ Mỹ đề xuất rút vũ khí khỏi Ả Rập Saudi. TPO - Các nghị sĩ đảng Dân chủ đề nghị rút vũ khí Mỹ khỏi Ả Rập Saudi để trừng phạt quyết định cắt giảm sản lượng dầu được công bố tuần trước bởi Tổ chức Các nước xuất LJoCDAx. Gia Cát Lượng tận mắt thấy nguy cơ nhà Thục Hán lâm vào khủng hoảng. May mắn thay, đại thần Tưởng Uyển tự Công Diễm cùng Phí Y tự Văn Vĩ nghe theo Gia Cát Lượng, dùng “Thành quy” để cai quản đất nước, thi hành chính sách một cách phù hợp, ổn định tình thế nước Thục Hán. Thành ngữ “Mặc thủ thành quy” được sử dụng rất phổ biến, dùng để chỉ người hoặc sự việc mang tính chất rất bảo thủ, ý là không muốn đổi mới và tiến bộ. Ngày nay, người ta sử dụng câu này với ngụ ý là người bảo thủ sẽ bị tụt hậu và bị người cầu tiến thay thế. Tuy nhiên, ngược dòng thời gian để tìm hiểu lai lịch của câu thành ngữ này thì “Mặc thủ thành quy” lại là câu nói có lai lịch đáng nể. Nó phản ánh đúng trí tuệ của Mặc Tử và Gia Cát Lượng, sáng suốt và nguyên tắc. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thời đại, câu thành ngữ này lại bị sử dụng với nghĩa tiêu cực nhiều hơn. Thành ngữ “Mặc thủ thành quy” gồm hai từ “Mặc thủ” và “Thành quy”. Hai chữ này đối ứng với hai biến cố có nội hàm phong phú. Điều này cho thấy lịch sử hình thành của câu thành ngữ vô cùng lâu đời. “Mặc thủ” chính là “Mặc Địch chi thủ” Điển cố “Mặc thủ” phát sinh vào thời Chiến quốc do Mặc Tử sử dụng. Thời điểm đó, kiến thức cũng như danh tiếng của Mặc Tử rất nổi tiếng. Ông không chỉ là nhà tư tưởng mà còn là nhà quân sự. Chủ trương của ông là “Kiêm ái phi công”, người với người yêu thương nhau Kiêm ái và phản đối chiến tranh xâm lược Phi công. Ông cũng tự mình nghiên cứu các phương pháp bảo vệ thành trì ngăn quân địch tấn công, đồng thời truyền rộng cách thức này. Sách “Mặc Tử” có ghi lại rằng, một lần Mặc Tử nghe được nước Sở có kế hoạch tấn công nước Tống. Công Thâu Ban, sinh ra ở nước Lỗ nên cũng gọi là Lỗ Ban, đã vì nước Sở mà chế tạo chiếc thang mây, làm xong sẽ tiến đánh nước Tiểu Tống. Mặc Tử đã vội vàng đi suốt 10 ngày, không kể ngày đêm, từ nước Tề đến gặp Công Thâu Bàn với ý định thuyết phục ông ta từ bỏ cuộc tấn công Tống. Sau đó, Công Thâu Ban đã dẫn ông đến yết kiến Sở vương. Hai người đã thực hiện mô phỏng chiến trận, công đánh và thủ thành trước mặt Sở vương. Mặc Tử đã dùng biện pháp thủ thành chặn đứng cuộc tấn công bằng thang mây khiến Sở vương bỏ đi ý định tiến đánh nước Tống. Lúc đó Mặc Tử dùng dây đai áo để làm dụng cụ thủ thành, lấy mùn gỗ và thẻ tre làm vũ khí. Công Thâu Ban chín lần sử dụng thang mây công thành, Mặc Tử liền chín lần chống lại sự tấn công. Điều này khiến Công Thâu Ban sử dụng hết các loại vũ khí cũng không thể đánh chiếm được thành trì dưới bàn tay thủ thành của Mặc Tử. Không chỉ vậy, Mặc Tử vẫn còn rất nhiều phương pháp thủ thành chưa dùng đến. Sở vương đã bị thuyết phục và quyết định từ bỏ ý định tấn công nhà Tống. Đây chính là “Mặc Địch chi thủ” nổi tiếng mà Mặc Tử đã sử dụng để giải trừ một lần nguy cơ cho nhà Tống. Vì vậy, vào thời Chiến Quốc, nhắc đến “Mặc Địch chi thủ”, các nhà cầm quân đi đánh thành đều sợ gặp phải. Khi buộc phải thủ thành thì các nhà cầm binh chỉ mong có thể đạt được “Mặc Địch chi thủ”. Người đời sau gọi “Mặc Địch chi thủ” là “Mặc thủ”, cùng với thời gian, hầu hết mọi người đã quên đi nội hàm ban đầu. Ảnh Shutterstock Gia Cát Lượng dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục “Thành quy” là điển cố nước Thục từ thời Tam Quốc còn ở vào thế chân vạc. Thời Tam Quốc, vua nước Thục qua đời đã phó thác việc quốc gia đại sự cho Gia Cát Lượng và muốn ông phò tá hậu chủ Lưu Thiền. Gia Cát Lượng đã không phụ sự nhờ vả, cúc cung tận tụy. Gia Cát Lượng tận mắt thấy nguy cơ nhà Thục Hán lâm vào khủng hoảng. May mắn thay, đại thần Tưởng Uyển tự Công Diễm cùng Phí Y tự Văn Vĩ nghe theo Gia Cát Lượng, dùng “Thành quy” để cai quản đất nước, thi hành chính sách một cách phù hợp, ổn định tình thế nước Thục Hán. Gia Cát Lượng có khả năng nhìn người sáng suốt, coi trọng tài năng làm yên ổn lòng dân của Tưởng Uyển. Lúc ông đề cử Tưởng Uyển làm trụ cột cho đất nước với Lưu Bị, Gia Cát Lượng nói “Tưởng Uyển là người coi trọng xã tắc, trong vòng trăm dặm tìm không thấy người tài như vậy. Ông lấy yên lòng dân làm gốc, không sửa đổi chính sách tổ tiên, mong chúa công xem xét thêm”. Gia Cát Lượng cũng nói thầm “Nếu thần không may qua đời, sự việc về sau nên giao cho Uyển.” Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Tưởng Uyển đã thừa kế tất cả quy tắc mà Gia Cát Lượng định ra, ông đảm nhiệm Thượng thư lệnh, Đại tướng quân, Tổng lý chính, phụ trách các vấn đề quân sự quốc gia, phò tá hậu chủ 9 năm cho đến khi ông qua đời. Phí Y là người kế tiếp Tưởng Uyển dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục. Phí Y hiểu biết hơn người, hành sự khiêm tốn, do đó Gia Cát Lượng cũng phải đối xử với ông khác với những nhân vật khác. Trong “Phí Y liệt truyện” có mô tả ông như thế này “Là người nhã nhặn khiêm tốn, gia đình không tích lũy tài sản, con cái đều mặc áo vải và ăn chay, đi lại không dùng xe kiệu, không giống người phàm”. Sau khi Gia Cát Lượng và Tưởng Uyển chết, Phí Y kế nhiệm làm quân sư cho hậu chủ và tiếp quản chức vụ Thượng thư lệnh của Tưởng Uyển, giữ chức Đại tướng quân. Phí Y từng đi sứ nước Ngô, ngôn từ của các quan đại thần nước Ngô vô cùng sắc bén, họ nhắm thẳng vào Phí Y mà chất vấn tra khảo. Phí Y không nóng vội đáp lời mà dùng lý lẽ trung thực thuận lòng người mà trả lời khiến không vị quan nào trong triều đình nhà Ngô có thể làm nhục ông. Tôn Quyền nhìn ông mà trong lòng vô cùng bội phục. Tuy nhiên Phí Y lại là quan lại của nhà Thục, Tôn Quyền chỉ biết nói lời tiếc nuối “Làm quân của nước Thục, hơn nữa lại là cánh tay đắc lực, quả là không hổ thẹn”. Trần Thọ, trong bình luận về “Tam Quốc Chí” có khen hai người “Tưởng Uyển chính trực có uy trọng, Phí Y hào phóng mà bác ái, tuân thủ các quy tắc mà Gia Cát Lượng đề ra, theo mà không sửa, điều này giúp biên cương an toàn, bang gia một nhà”. Sự tuân thủ các quy ước và sự kiên trì của hai người này đã cho phép nhà Thục Hán duy trì tình trạng “biên giới được an toàn, bang gia một nhà” trong hơn mười năm sau khi cả Lưu Bị và Gia Cát Lượng qua đời. Sau này “Mặc thủ” và “Thành quy” được kết hợp lại thành thành ngữ “Mặc thủ thành quy”. Hầu hết những người hiện đại cho rằng “Mặc thủ thành quy” có nghĩa là tuân theo các quy tắc cũ không chịu thay đổi và dùng để mô tả người bảo thủ. Kỳ thực trí tuệ của cổ nhân cùng những thành tựu họ đạt được có khả năng siêu việt nhân loại. “Mặc thủ thành quy” có thể khiến đối phương lâm vào thế thất bại. Thời gian qua đi, cảnh vật thay đổi, nội hàm của thành ngữ cũng vì vậy mà biến hóa. Tìm hiểu cội nguồn của thành ngữ mới thấy được bên trong chứa cả bầu trời và ý nghĩa thâm sâu. Theo Epoch TimesSan San biên dịch Quân sư KHỔNG MINH có ý phá Định Mệnh Nói đến Khổng Minh thì khắp cõi trời Đông Nam Á , và ngày nay có thể nói hầu hết mọi giới đều biết và công nhận đó là một quý nhân, một vị quân sư có bộ óc suy tính không ai có thể lường trước được. Thánh Thán và Mao Tôn Cương là hai nhà văn nổi tiếng về phê bình nhân vật của Trung Quốc đã phải chịu hạ bút là một kỳ nhân đệ nhất trong tam tuyệt thời Tam Quốc đứng trên hai người là Tào Mạnh Đức và Quan Vân Trường . Trước đây tôi đã cố đem sức mọn ra phác họa hai bức tranh của Tào Tháo và Quan Công và tự thấy quá thô sơ không tô điểm diễn tả được phần nào tư cách chính yếu của cổ nhân . Nay đối với Khổng Minh , thật tình không biết làm sao trình bày cái tài tình của người còn gấp trăm ngàn lần đặc sắc hơn . Nhưng lòng đã nguyện , cũng xin cố gắng và xin lỗi các vị huynh trưởng trong làng bỏ qua nếu có điều gì không được thấu đáo kỹ càng. Quân Sư Khổng Minh, tên thực là Gia Cát Lượng, sanh năm Tân Dậu 181 dương lịch ngày 10 tháng 4 giờ Tuất. Tuổi Tân Dậu mệnh ở Mùi, Thân ở Mão là cả hai vị trí của người không được hài lòng với ý chí của mình từ thiên định mệnh cho đến chí phấn đấu. Phải chăng ông là người sinh ra không gặp thời, đâu phải vô tài; cái tài của ông là cái tài của một tuyệt thế kỳ nhân Tả Hữu, Thai, Thanh Long với sự thông minh quán chúng Thái Dương ở Mão , Thái Âm ở Hợi đồng chiếu Mệnh Vô Chính Diệu ở Mùi. Cốt cách của ông là Thiên Lương Mộc cùng với Thái Dương là thiên chức của người lãnh phận sự phò tá cho các vị nguyên thủ quốc gia Quân Sư, Thừa Tướng. Người ta thường nói Mã ở Hợi là Mã hết đường chạy, sự thực với Khổng Minh Mộc mệnh đối với cung Hợi Thủy, Mã không phải là không đắc dụng khiến ông thành một vị ngoại trưởng có tài thuyết phục người ta cùng với Điếu Khách ở Mệnh. Thiên Mã này tài bồi nghị lực, ông càng cố gắng mẫn tiệp Mã+Linh bao nhiêu càng đưa ông lâm vào cảnh thân thể hao mòn gần đất xa trời Mệnh Mộc tiết khí Mã Linh. Thật là một tấm gương vĩ đại của một vị thừa tướng tận tụy về công cụ mà quên hẳn cái xác phàm nhân của mình. Người có Tả-Hữu nhập Mệnh là người có tài quán xuyến mọi vấn đề, thấu hiểu cả văn lẫn võ, được Nhật Nguyệt tịnh minh hội chiếu mà Mệnh lại ở thế Vô Chính Diệu là một sự mênh mông bao quát, tức là có thể nói ông thấu hiểu hết thẩy sự việc từ hữu hình đến vô hình, từ vấn đề nhân sự đến thiên sự. Từ lúc còn là thư sinh bạch diện ẩn dật ở núi Ngọa Long, ông đã phân tách trình bày đủ lẽ cái thế tàn của nhà Hậu Hán để Lưu Bị biết, rồi ra cái sức chống đỡ của thế nhân cũng chỉ được phần nào, tức là đất nước có gặp người tài ba khôn khéo cũng chỉ giữ được một phần ba. Cuộc gặp gỡ hai nhân vật này chứng minh cái thế chính trị sáng suốt của Khổng Minh bằng bộ Tả Hữu, Âm Dương, Thiên Mã nói lên hết thẩy mọi sự việc của suốt cuộc đời ông, một cái tài tuyệt luân của một vị thừa tướng, một vị quân sư điều khiển ba quân, thêm cả cái tài vô hình huyền bí là ông thấy thiên cơ, ông là một vị thánh sư về tướng số. Ông không biết sự biến chuyển của cơ trời, làm sao ông cầu được gió Đông Nam để thiêu đốt trăm vạn quân Tào ở Xích Bích . Sự cầu đảo gió này không biết ông có tài thực sự khiến thay đổi được khí trời trong cảnh trái thời tiết, hay ông tinh thông về thiên văn biết đến giờ đó có gió lạ, ông làm trò cầu đảo để khuất phục nhân tâm. Cũng như cái trò mượn 10 vạn mũi tên của Tào để bắn quân Tào Tháo . Nếu không biết ngày giờ đó có sa mù, quân Tào không giám xung trận, chỉ lấy cung tên đem ra bắn loạn xà ngầu khi có báo động, chỉ trong mấy tiếng đồng hồ ông có đủ số tên đem nạp cho Chu Du để cho quân có đủ tên bắn giết quân Tào khi lâm trận Xích Bích. Tôi tưởng hai sự việc này tỏ ra ông quá thấu hiểu thiên văn một cách quá tài tình . Ngụy Diên là một viên thượng tướng được liệt đứng liền sau Ngũ Hổ lúc mới bước chân vào ra mắt Huyền Đức xin qui hàng, Khổng Minh quát võ sĩ đem ra chém đầu . Ông nói người này có xương trái khớp ở gáy tức là tướng Hình của người phản trắc không nên để . Theo tôi nghĩ không biết Khổng Minh có tài coi tướng giỏi hay không; hay chỉ là một cách hành sự răn kẻ làm tôi không nên ở hai lòng, vì Ngụy Diên vừa mới giết chủ là Hàn Huyền đem thành Tràng Sa đến dâng cho Lưu Bị để làm món quà tiến thân. Những sự việc trên đầy là sự việc đứng về phương diện vô hình huyền bí . Còn như mưu mẹo thực hư, hư thực thật không biết đâu mà lường với Khổng Minh . Bắt Tào Tháo trên con đường nhỏ Hoa Dung là một tình tiết dàn cảnh đến Tháo là một nhà quân sự có hạng cũng phải mắc phải kể là quá tài tình . Một đám tàn quân bại trận thì không khi nào giám ngang nhiên chạy trên đường lớn là chỗ dễ bị phục kích, tất nhiên con nhà tướng phải cho binh tháo lui theo đường hẻm mà trong đường hẻm thấy khói lên, Tháo cho là nghi binh để nhử mình chạy qua đại lộ, vậy cứ tiểu lộ chạy là thoát, ai ngờ tiểu lộ nghi binh hóa ra thật có Quan vân Trường đứng chận. Tháo đành bó tay chịu trận. Những sự hành quân của Khổng Minh luôn luôn khiến đối phương không biết đâu mà tính . Những điều mà tôi muốn trình bày bằng lá số này là Khổng Minh coi nhân thế không đối thủ, mà đối thủ chính cống kia là cao xanh, là trời, thượng đế nên Khổng Minh có ý kình phá định mệnh. Biết nhà Hán đã hết vận mà còn cố công gánh vác một thời gian nữa cho Lưu Bị từ một vị hoàng thân đã trở thành một thường dân làm nghề dệt chiếu bán dép có tinh thần muốn bảo tồn đế nghiệp chiếm lại được phần ba quốc thổ. Đương giữa mùa Đông rét cóng chỉ có gió bấc lạnh lẽo làm sao có được gió Đông Nam . Ông cầu đảo mà được chẳng là tài cướp được quyền tạo hóa làm cho đại đô đốc Đông Ngô là Chu Du kinh hãi phải than rằng Người này có phép cướp quyền trời đất. Nếu để sống ắt gây tai họa cho Đông Ngô, ta phải giết ngay đi để dứt mối lo sau này. Biết mệnh mình đã hết, cố tình nhương tinh cầu thọ lấy thêm 12 năm nữa và vụ đốt hang thượng-phương định thiêu chết ba cha con Tư Mã Ý trong đó có Tư Mã Chiêu là cha của Tư Mã Viêm sau thành Tấn Võ Đế thống nhất đất nước. Trong lúc lửa cháy bốn bề, địa lôi nổ tung từng đám đất thì trời mưa như trút nước. Người đời sau đã có câu Địa lôi chống sao lại Thiên Lôi, lửa của người làm sao chống lại nước của trời. Những sự việc này Khổng Minh cố thực hiện mà không thành chẳng qua đã có định mệnh là cái vị trí của Thân ông ở Mão Tuế Phá. Ông quật khởi chống hẳn tạo hóa đi ngược lại định Mệnh không cho phép ông thỏa mãn tức là vị trí Hợi Mão Mùi của người Tỵ Dậu Sửu nếu là thường nhân dễ gây nên loạn ý làm xằng . Đem Quản Di Ngô và Khương Tử Nha ra sánh với Khổng Minh là một việc khó trình bày vì hai ông này là người gặp thời phò chúa cũng có thời là Tề Hoàn Công và Chu Văn Vương, kẻ nên nghiệp bá người thành nghiệp đế, hai ông được rạng danh với công-nghiệp sáng ngời. Trường hợp của Khổng Minh là trường hợp của Văn Trọng nhà Thương phò vua Trụ và Phạm Tăng phò Hạng Vũ, một khi đã được người lấy lễ trọng đãi mình, mình chỉ còn biết đem hết sức lực khả năng ra phục vụ và cũng không đành lìa bỏ như tướng Trần Quang Diệu quyết tâm phò vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đổ rồi rốt cuộc cùng nhà vua bị thảm hại. Có phải người đời hay trọng kẻ phù thịnh, mấy ai đã tán thưởng đến người phò suy, cũng không nên nhắm thành bại để xét tài năng của cá nhân. Gia Cát Võ Hầu là một quái kiệt đáng phàn nàn về cảnh ngộ, đáng kính về tư cách, đáng trọng về tài ba . Link lá số Lá số tử vi Khổng Minh- Gia Cát LượngCó câu “mệnh vô chính diệu phi yểu tắc bần”, Gia Cát Lượng có Nhật Nguyệt cùng hợp chiếu mệnh nên cuộc đời từ trung vận thì tỏa sáng rực rỡ, tung hoành ngang dọc, tên tuổi lẫy lừng Cuối thời Tam Quốc, Gia Cát Lượng gần như trở thành thủ lĩnh, có tiếng nói hơn cả hậu chúa Lưu Thiện. Sau khi ông mất, Lưu Thiện một lúc giết chết 3 vị đại thần khiến ai cũng nghĩ ông ngu ngốc cho đến khi biết được ẩn tình bên trong. Thời Tam Quốc, nước Thục có thể nói là vùng đất quy tụ nhân tài. Trong giai đoạn đỉnh cao nhất, có Ngọa Long tiên sinh - Gia Cát Lượng, còn có cả Ngũ Hổ thượng tướng đều tề tựu ở nước Thục. Thế nhưng, tới nửa sau của thời Tam Quốc, nhân tài nước Thục mới dần dần trở nên khan hiếm. Sau khi Lưu Bị qua đời, nước Thục về cơ bản gần như là coi Gia Cát Lượng làm thủ lĩnh. Lưu Thiện là hậu chúa của nước Thục, nhưng về cơ bản là chẳng có chút quyền lực gì. Không chỉ có vậy, khi so sánh với Gia Cát Lượng, Lưu Thiện lại càng trở nên ngu dốt hơn. Lưu Thiện không hề ngu ngốc như vẻ bề ngoài mà mọi người vẫn tưởng. Ở Trung Quốc, khi muốn khen một người nào đó thông minh, người ta thường ví người đó với Gia Cát Lượng, khi ấy người được khen chắc chắn sẽ rất vui. Nhưng khi chúng ta chửi ai đó là ngu dốt thì luôn so sánh người đó với Lưu Thiện, nói họ là “A Đấu biệt danh của Lưu Thiện không dìu dắt nổi”, như thế thì người bị chê chắc chắn sẽ tức nhảy dựng lên. Vậy tại sao hình tượng Lưu Thiện lại tồi tệ như vậy? Thực ra nguyên nhân quan trọng đó chính là Lưu Thiện sau khi đầu hàng Tào Ngụy, nói với Tư Mã Chiêu một câu “Ở đây rất vui, ta không còn nhớ nhung gì về nước Thục nữa”. Việc này đã trở thành chuyện cười thiên cổ. Nhưng chúng ta hãy nghĩ kỹ xem, nếu như mà Lưu Thiện đang ở trong tình cảnh như thế mà không biết đường cúi đầu, vậy thì ông ta mới thực sự là ngu ngốc. Thực ra Gia Cát Lượng từng đánh giá về con người Lưu Thiện, trong cuốn “Tam Quốc chí - Xác Vy truyện” có ghi chép “Triều đình Lưu Thiện năm nay 18, khôi ngô tuấn tú, thông minh, yêu thương thuộc hạ, người dưới. Người trong thiên hạ ái mộ Hán Thất, muốn cùng vua ứng thiên thuận dân, phò tá minh chủ, lập công phục hưng, lưu danh trong cuốn trúc bạch”. Lưu Thiện thực ra không hề ngu ngốc, thậm chí có thể nói là người vô cùng sáng suốt. Chính vì thế, sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện mới có thể tiếp tục trấn giữ được nước Thục thêm hơn 30 năm. Hơn nữa, Lưu Thiện cũng không hề nhu nhược như trong những bộ phim truyền hình diễn tả. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiện đã lập tức giết 3 vị đại thần chỉ trong nháy mắt cực kỳ quyết đoán. Hãy xem 3 vị đại thần đó là ai và nguyên nhân gì khiến Lưu Thiện kiên quyết ra tay giết họ. Người đầu tiên ông hạ lệnh giết là Lý Mạc, người này cũng được coi là lão thần của Thục Hán, tuy nhiên quả thực lại là một phần tử thừa cơ triệt để từ đầu đến cuối. Năm ấy, khi Lưu Bị tiến vào Ích Châu, Lý Mạc được ra lệnh nhận chức ở Ích Châu. Trong một lần Lưu Bị tụ họp với thuộc hạ, để thể hiện bản thân, Lý Mạc lại chỉ trích Lưu Bị cướp đoạt Ích Châu là sai trái với những lời lẽ “nhân nghĩa đạo đức”. Khi ấy Lưu Bị liền hỏi lại rằng “Thế tại sao ngươi không đi giúp Lưu Chương?”. Lý Mạc nói cái gì mà “thực lực không đủ”. Lúc ấy, Lưu Bị suýt chút nữa là giết hắn ta, cũng may là Gia Cát Lượng đứng ra hòa giải, như thế mới giúp Lý Mạc thoát khỏi một kiếp nạn. Nhưng Lý Mạc lại chẳng hề có một chút gì gọi là cảm kích, thậm chí còn lấy oán báo ơn. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lý Mạc liền dâng tấu lên Lưu Thiện nói xấu, hủy hoại thanh danh của Gia Cát Lượng, còn nói muốn nhanh chóng tiêu diệt loại bỏ thế lực còn sót lại của Gia Cát Lượng. Lưu Thiện vô cùng phẫn nộ, thế là phái người bắt giữ Lý Mạc, đồng thời giết tên tiểu nhân này. Người thứ hai ông giết đó chính là Lưu Diễm, người này cũng là một lão thần, từng đảm nhiệm Xa Kỳ tướng quân, từng lập những công lao hiển hách. Tuy nhiên, người này tự cho là mình lập được công lớn, không hề coi Lưu Thiện ra gì, thậm chí còn nói những lời khiếm nhã, ô uế. Hắn ép vợ mình thừa nhận có gian tình với Lưu Thiện, không những dùng đế giày đánh Hồ Thị ác liệt mà còn dùng một tờ hưu thư giống như đơn ly hôn ngày nay để bỏ vợ mình. Sau này Hồ Thị kiện cáo lên Lưu Thiện, Lưu Thiện vô cùng tức giận, hạ lệnh giết chết Lưu Diễm. Hành động này của Lưu Thiện khiến những kẻ khác không còn dám nghĩ rằng ông là một kẻ dễ bắt nạt nữa. Người thứ ba là Dương Nghị, người này trong nửa sau thời Tam Quốc có thể nói là cánh tay đắc lực của Gia Cát Lượng, là người vô cùng có tài năng. Tuy nhiên, người này lòng dạ cực kỳ hẹp hòi. Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Dương Nghị đã xử lý việc rút lui quân binh rất tốt, bảo toàn được căn bản của quân Thục. Ông ta nghĩ rằng mình đáng lẽ sẽ thay thế vị trí của Gia Cát Lượng nhưng Lưu Thiện lại không hề chọn ông ta làm tể tướng. Dương Nghị trong khi tức giận đã nói ra lời nói như thế này “Sớm biết như thế này thì khi ấy đã đầu hàng rồi đi theo Tào Tháo cho xong”. Nghe thấy vậy, đương nhiên Lưu Thiện sẽ tiễn ông ta đi theo Tào Tháo luôn. Xem thêm Nguồn Nguồn “Mặc thủ Thành quy” là một thành ngữ được sử dụng rất phổ biến, ngày nay thường dùng để chỉ những người xem trọng tính bảo thủ, không tìm kiếm sự đổi mới tiến bộ, cũng có ý nói người như thế sẽ bị đào thải và thay thế bằng những thứ mới. Tuy nhiên nếu nhìn lại nguồn gốc của câu thành ngữ “Mặc thủ Thành quy” này, chúng ta sẽ tìm thấy trí tuệ uyên bác của hai nhân vật rất có lai lịch trong lịch sử – Mặc Tử và Gia Cát Lượng. Thuận theo dòng chảy lớn của lịch sử, Mặc thủ thành quy’ càng ngày càng bị con người đem ra sử dụng với ý nghĩa tiêu cực. Thành ngữ “Mặc thủ Thành quy” được cấu thành từ hai điển tích “Mặc thủ” và “Thành quy”, có nội hàm phong phú, lịch sử hình thành cũng vô cùng xa xưa. “Mặc thủ” chính là “Mặc Địch chi thủ” Điển cố “Mặc thủ” bắt nguồn từ câu chuyện của Mặc Tử thời Chiến Quốc. Lúc bấy giờ, học vấn và danh tiếng của Mặc Tử vô cùng hiển hách. Ông không chỉ là nhà tư tưởng lỗi lạc mà còn là một nhà chiến lược quân sự tài ba. Chủ trương của ông là “Kiêm ái Phi công” “Kiêm ái” ý là “yêu quý lẫn nhau”, còn “Phi công” ý là “không dùng để tấn công”. Mặc Tử cũng tự nghiên cứu và truyền rộng phương pháp bảo vệ thành trì trước sự tấn công của kẻ thù. Trong cuốn Mặc Tử’ có ghi chép lại rằng Lúc bấy giờ Mặc Tử nghe tin nước Sở muốn tấn công nước Tống. Công Thâu Ban vì sinh ra tại nước Lỗ nên còn gọi là Lỗ Ban đã vì nước Sở mà chế tạo ra vân thê’ thang mây, chuyên dùng phá thành; khi làm xong sẽ tiến đánh nước Tống. Mặc Tử vì an nguy của quốc gia, quyết tâm lặn lội đường xa suốt mười ngày mười đêm từ nước Tề đến nước Sở thuyết phục Công Thâu Ban từ bỏ ý định tấn công. Sau đó, Công Thâu Ban đã dẫn ông đến yết kiến Sở vương. Mặc Tử dùng đạo lý thuyết phục và mô phỏng diễn biến cuộc chiến trước mặt Sở vương. Ông đã dùng sách lược thủ thành do bản thân mình phát minh ra để chặn đứng thế tấn công bằng thang mây của Công Thâu Ban khiến Sở vương bỏ đi ý định tiến đánh nước Tống. Lúc đó, Mặc Tử trải chiếc áo choàng của mình trên bàn tượng trưng cho đô thành nước Tống, lấy gỗ vụn và thẻ tre làm vũ khí thủ thành. Tổng cộng biến hóa chiến thuật đến chín lần, Công Thâu Ban đều bị Mặc Tử ngăn chặn, đến lúc vô kế khả thi rồi, thế mà vẫn còn rất nhiều sách lược phòng thủ của Mặc Tử chưa dùng tới. Sở vương đã bị thuyết phục và từ bỏ ý định tấn công. Đây chính là “Mặc Địch chi thủ” nổi tiếng trong lịch sử. Nhờ có Mặc thủ’ của Mặc Tử mà nhà Tống đã tránh được đại kiếp nạn chiến loạn. Vì vậy vào thời Chiến Quốc, những người dụng binh đánh trận đều e ngại khi nhắc đến “Mặc Địch chi thủ”. Còn những bên thủ giữ thành trì chỉ mong có thể đạt được “Mặc Địch chi thủ”. Người đời sau còn gọi “Mặc Địch chi thủ” là “Mặc thủ”. Tuy nhiên thuận theo dòng chảy dài của năm tháng, hầu hết mọi người đã quên đi nội hàm ban đầu của nó. Mặc Tử Ảnh Tài sản công Gia Cát Lượng dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục Điển cố Thành quy’ bắt nguồn từ một câu chuyện xảy ra tại nước Thục trong thời đại Tam Quốc. Lúc bấy giờ, trước khi Thục Vương Lưu Bị qua đời, ông đã mang việc quốc gia đại sự phó thác cho Gia Cát Lượng Khổng Minh và nhờ ông phò tá Lưu Thiện. Gia Cát Lượng đã không phụ sự phó thác của Thục Vương, suốt đời cúc cung tận tụy. Gia Cát Lượng liệu sự như thần đã sớm nhìn thấy nguy cơ nhà Thục Hán lâm vào khủng hoảng sau khi Lưu Bị qua đời. May thay hai đại thần là Tưởng Uyển tự Công Diễm và Phí Y tự Văn Vĩ đã dùng các nguyên tắc trị quốc bình thiên hạ của Gia Cát Lượng để ổn định tình thế Thục Hán lúc bấy giờ. Gia Cát Lượng nhìn người sáng suốt, rất coi trọng tài năng làm yên ổn lòng dân của Tưởng Uyển. Khi còn sống ông từng tiến cử Tưởng Uyển làm rường cột quốc gia với Lưu Bị, Gia Cát Lượng nói “Tưởng Uyển xem trọng xã tắc, không phải là người chỉ có tài trong trăm dặm; ông ta lấy việc yên dân, yêu nước làm gốc, mà không lấy việc chải chuốt, sửa đổi nguyên tắc của tổ tiên làm đầu; mong Chúa công xem trọng.” Khi Gia Cát Lượng mắc trọng bệnh có dâng mật biểu lên hậu chủ Lưu Thiện “Nếu thần không may qua đời, việc xã tắc về sau nên giao cho Tưởng Uyển.” Sau khi Gia Cát Lượng mất, Tưởng Uyển đã kế thừa tất cả quy tắc “Thành quy” mà Gia Cát Lượng định ra; ông đảm nhiệm Thượng thư lệnh, Đại tướng quân, Tổng lý chính, phụ trách các vấn đề quân sự quốc gia, phò tá hậu chủ 9 năm cho đến khi qua đời. Phí Y là người kế nghiệp tiếp theo của Gia Cát Khổng Minh và Tưởng Uyển, đã dùng “Thành quy” để bảo vệ nước Thục. Phí Y hiểu biết hơn người, xử sự khiêm nhường; do đó Gia Cát Lượng cũng có sự đối đãi đặc biệt với ông. Trong “Phí Y biệt truyện” có mô tả ông như thế này “Người nhã nhặn khiêm tốn, không tích tài vật, con cái đều mặc áo vải, ăn chay, không đi xe ngồi kiệu, không khác phàm nhân”. Sau khi Gia Cát Lượng và Tưởng Uyển qua đời, Phí Y kế nhiệm làm quân sư cho hậu chủ đồng thời tiếp quản chức vụ Thượng thư lệnh của Tưởng Uyển, giữ chức Đại tướng quân. Phí Y từng đi sứ nước Ngô, các quan đại thần nước Ngô đã dùng ngôn từ vô cùng sắc bén nhắm thẳng vào Phí Y mà tranh biện. Phí Y dùng lời lẽ trung thực thuận lòng người không nhanh không chậm đáp trả khiến không vị quan nhà Ngô nào có thể làm nhục ông. Tôn Quyền thấy vậy trong lòng vô cùng bội phục. Tuy nhiên Phí Y lại là quan lại của nước Thục, Tôn Quyền vô cùng tiếc nuối “Quân thiên hạ thục đức, tất đương cổ quăng Thục triêu, khủng bất năng số lai dã”, tức là Phí Y có tư chất và phẩm hạnh cai trị thiên hạ, nhất định có thể trở thành trụ cột của nước Thục, trừ hắn ra e rằng sẽ không còn ai nữa. “Tam quốc chí” của Trần Thọ đã bình luận và ca ngợi hai vị đại thần này như sau “Tưởng Uyển chính trực có uy trọng, Phí Y hào phóng mà bác ái, tuân theo mà không sửa đổi các quy tắc “Thành quy” do Gia Cát Lượng đề xướng, giúp an định biên cương, bang giao hòa hảo”. Có thể thấy, chính sự tuân thủ theo “Mặc thủ Thành quy” này đã cho phép nhà Thục Hán duy trì mối quan hệ giao bang với các nước láng giềng và ổn định biên cương trong hơn một thập kỷ sau cái chết của Lưu Bị và Gia Cát Lượng. Sau này “Mặc thủ” và “Thành quy” được kết hợp lại thành thành ngữ “Mặc thủ Thành quy”. Con người hiện đại hầu hết đều nghĩ rằng “Mặc thủ Thành quy” có nghĩa là cố hữu vào các quy tắc cũ mà không chịu thay đổi. Trên thực tế, trí huệ của người xưa cùng những thành tựu họ để lại là điều mà hậu nhân không dễ gì đạt được. “Mặc thủ Thành quy” có thể giúp người tuân theo nó đứng vào vị thế bất khả chiến bại. Thuận theo sự phát triển của lịch sử, nội hàm của các thành ngữ cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Chỉ bằng cách tìm hiểu nguồn gốc của chúng, chúng ta mới có thể hiểu được nhiều ý nghĩa thâm sâu ẩn chứa trong đó. Tham khảo tư liệu Ngọc Khiết biên dịchQuý vị tham khảo bản gốc từ Epoch Times Hoa ngữ Xem thêm02/11/202222/01/202216/01/2022

tử vi gia cát lượng