Cụ thể, bài Văn này viết "Trong các loại vợ: vợ sắp cưới, vợ mới cưới, vợ chưa cưới, vợ chuẩn bị cưới, em thích nhất là vợ nhặt, tác phẩm được sáng tác bởi nhà văn Kim Lân, lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 để viết truyện". Được biết, đây là
Nhà văn Kim lân được biết đến với rất nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng giai đoạn kháng chiến chống thực dân xâm lược. Một trong những tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất là tác phẩm Vợ nhặt. Bài viết hôm nay cùng học vui sẽ hướng dẫn các bạn vẽ sơ đồ tư duy tác phẩm Vợ nhặt ngắn gọn nhất! I. Giá trị nhân đạo của tác phẩm
Phần thân bài phân tích Giá trị nhân đạo qua tác phẩm "Vợ nhặt" Kim Lân. Kim Lân là cây bút truyện ngắn, thường viết về người nông dân và cũng có những trang văn viết về đặc sắc văn hóa. Ông là mẫu nhà văn "Qúy hồ tinh bất quý hồ đa", viết kỹ lưỡng, viết từ gan ruột, ông không chấp nhận sự nhạt
Tác phẩm "Vợ nhặt " là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo ,tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rát rõ hai giá trị,giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Trong giờ học, cậu học sinh lớp 12 được thầy giáo gọi lên bảng kêu so sánh giữa tên tác phẩm "Vợ Nhặt" của Kim Lân và hai chữ "nhặt vợ". Mục đích của thầy là để học trò hiểu rằng: Tác giả đã cân nhắc và đặt tên tác phẩm như thế nào.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Tác phẩm nằm trong phần giảm tải) Các tác phẩm nước ngoài (Số phận con người, Ông già và biển cả, Thuốc,…) Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc. 2. Những tác phẩm có khả năng thi THPT quốc gia 2022. Do 2 năm liên tiếp
sGgeL. vạ NHẶT KIM LÂN KẾT QUẢ CẦN ĐẠT Hiểu được tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra. Cảm nhận được niềm khát khao tổ ấm gia đình, niềm tin vào cuộc sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người nghèo khổ ngay trên bờ v,ực của cái chết. Nắm được những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trong việc tạo dựng tình huống truyện, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại. Kim Lân 1920 - 2007, tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham gia Hội Văn hoá cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách mạng viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim. Tác phẩm chính Nện vợ nên chồng tập truyện ngắn, 1955, Con chó xấu xí tập truyện ngắn, 1962. Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê - những thú chơi và sinh hoạt văn hoá cổ truyền của người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,... ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chặt phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Năm 2001 Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Vợ nhật là trưỳện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí 1962. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại 1954, ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. * * * • VÁN BẢN Lược phần đầu Trước kia mỗi chiều đi làm về, Tràng chỉ đi một mình, anh thường đùa vui với lũ trẻ trong xóm ngụ cư. Nhưng độ này, trên đường về nhà, người ta thấy anh tỏ ra mỏi mệt, vẻ mặt đăm chiêu, lo lắng và lũ trẻ cũng ủ rũ, không buồn ra đón anh nữa.} Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng m,a, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về vói một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hoi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng. Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên Anh Tràng oi ! - Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên lần nữa - Chông vợ hài Chông vợ hài nói lái hai vợ chồng. . Tràng bật cười Bố ranh! Người đàn bà có vẻ khó chịu lắm. Thị nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc lại tà áo. Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa. Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết. 1 Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tưoi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ. Một người thở dài. Người khác khẽ thì thầm hỏi Ai đấy nhỉ ?... Háy là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên ? Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ Luc ông cụ Tứ còn sống. 1 Liên đoàn một tổ chức thu gom thóc cho phát xít Nhật ở nước ta trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. có thấy họ mạc nào lên thăm đâu. Quái nhỉ ? Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc. Hay là vợ anh cu Tràng ? ừ, khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để. Ôi chao ! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không ? Họ cùng nín lặng. Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Hắn cũng biết thế, nhưng hắn lại lấy vậy làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình. Lược một đoạn Trên đường về nhà, ngitời đàn bà thì ngượng nghịu, còn Tràng thì tỏ ra thích chí và tự đắc. Thỉnh thoảng họ nói với nhau những lời vụng về, lúng túng. Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà, cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Tràng xăm xăm bước vào trong nhà, nhấc tấm phên rách sang một bên, thu dọn những niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất. Hắn quay lại nhìn thị cười cười Không có người đàn bà, nhà cửa thế đấy! Thị nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng vỗ vỗ xuống giường đon đả Ngồi đây!... Ngồi xuống đây, tự nhiên... Người đàn bà theo lời hắn ngồi móm xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng ngượng nghịu. Tràng đứng tây ngây ra giữa nhà một lúc, chợt hắn thấy sờ sợ. Chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ, hắn lấm lét bước vội mấy bước ra sân gắt lên Sao hôm nay bă lão về muộn thế không biết! Hắn loanh quanh hết chạy ra ngõ đứng ngóng, lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Thị vẫn ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần. Hắn nghĩ bụng “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ ?... ô sao nó lại buồn thế nhỉ ?...”. Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình. Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng... ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn1’ lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thóc vào dốc tỉnh, hắn hò một câu choi cho đỡ nhọc. Hắn hò rằng Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì! Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chòng ghẹo cô nào, nhưng mấy cô gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn, cười như nắc nẻ Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giò thì ra đẩy xe bò với anh ấy! Thị cong cớn Có khối cơm trắng mấy giò đấy! Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Tràng ngoái cổ lại vuốt mồ hôi trên mặt cười Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên! Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. - Thị liếc mắt, cười tít. Tràng thích lắm. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói ' - Điêu ! Người thế mà điêu ! Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười. Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thị vẫn đứng cong cớn trước Đấy, muốn ăn gì thì ăn. Hắn vỗ vỗ vào túi. Rích bố cu’11, hở! Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì. Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở Hà, ngon! về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Hắn cười Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chựn, nghĩ thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng’21. Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái Chậc, kệ! - Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về... Tràng chợt đứng dừng lại, lắng tai nghe. Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi Rích bố cu tiếng Pháp bồi, ghép từ riche giàu có và beaucoup nhiều nhiều tiền. Đèo bòng mang thêm, vướng bận thêm vào mình một cái gì khó gỡ ra được. vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ, và gọi với vào trong nhà u đã về đấy! Hắn lật đật chạy ra đón. Hôm nay sao u về muộn thế! Làm tôi đợi nóng cả ruột. ốà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi Có việc gì thế vậy ? Thì u hẵng cứ vào trong nhà đã nàò. Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hon. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho. đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Tràng tưoi cười Thì u hẵng vào ngồi lên giường lên giếc chình chện cái đã nào. Bà lão lập cập bước vào. Người đàn bà tưởng hà lão già cả, điếc lác, thị cất tiếng chào lần nữa u đã về ạ! Ô hay, thế là thế nào nhỉ ? Bà lão băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng nhắc mẹ Kìa nhà tôi nó chào u. Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... Chẳng qua nó cũng là cái số cả... Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không. Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, ngươi ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn Tao đoạn từ cổ thời buổi, giai đoạn. này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giòi bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được ? Bà lão khẽ đặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dầu mới” ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng... Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời. Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau. Bà lão đăm đăm. nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm Ở đây, những nhà có người chết, vì quá nghèo - không có tiền mua hưong, đã đốt đống rấm cốt có khói để xua đi tử khí. ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?... Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Lược một đoạn Cảnh gia đình trước lúc đi ngủ ; vọ chồng Tràng sượng sùng chẳng biết nói gì; có tiếng hờ khóc vẵng đến từ phía những nhà có người chết đói. Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người, êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải. Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng loá xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chóp chop liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mói mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên11’ ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang Khươm mươi niên khẩu ngữ lâu, nhiều năm; ở đây ý nói quần áo để lâu không giặt giũ, phoi phóng. Ang đồ đựng nước bằng gốm. nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch. Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thìa cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mói thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu Anh ấy dậy rồi đấy. Con đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Vâng. Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn Chao chát chóng lỏn nói năng đanh đá, chua ngoa trái nghĩa với dịu dàng, lễ phép. như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Không biết có phải vì mói làm dâu mà thị tu chí làm ăn không ? Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành, Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh vói con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng-về sau này Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem... Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà họp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng bông, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn. Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ Chúng m ày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ. Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười Chè đây. - Bà lão múc ra một bát - Chè khoán' Chè khoán một thứ chè ngon, nấu bằng đậu xanh đãi sạch vỏ thật nhuyễn ; đây là cách gọi của vùng quê Kim Lân, những noi khác gọi là chè kho. ’ đây, ngon đáo để cơ. Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn tươi cười, đon đả Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy. Tràng cầm đôi đũa, gựt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người. Ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã. Đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợ hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen. Người con dâu khẽ thở dài, thị nói lí nhí trong miệng Trống gì đấy, u nhỉ ? Trống thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ... - Bà lão ngoảnh vội ra ngoài. Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc. Người con dâu có vẻ lạ lắm, thị lẩm bẩm Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à ? Im lặng một lúc thị lại tiếp Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy. Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi. Cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn đã bã ra chát xít... Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật. Tràng hỏi vội trong miếng ăn Việt Minh phải không ? ừ, sao nhà biết ? Tràng không trả lời. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm. Hôm ấy hắn láng máng nghe người ta nói họ là Việt Minh 'đấy. Họ đi cướp thóc đấy. Tràng không hiểu gì sợ quá, kéo vội xe thóc của Liên đoàn tắt cánh đồng đi lối khác. À ra họ đi phá kho thóc chia cho người đói. Tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu. Ngoài đình tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập. Mẹ và vợ Tràng đã buông đũa đứng dậy. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới... [Truyện ngắn Việt Nam 1945 -1985, NXB Giáo dục, 1985 HƯỚNG DẨN HỌC BÀI Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn ? Nêu ý chính của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào. Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy anh Tràng đi cùng với một người đàn bà lạ về nhà ? Sự ngạc nhiên của dân làng, của bà cụ Tứ, và của chính Tràng nữa cho thấy tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo như thế nào ? Tình huống truyện đó có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của tác phẩm ? Dựa vào nội dung truyện, giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua hiện tượng “nhặt được vợ” của Tràng, anh chị hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 ? Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ ? Phân tích tậm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Qua đó, anh chị hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này ? Tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân cách kể chuyện hấp dẫn, cách dựng cảnh gây ấn tượng với nhiều chi tiết đặc sắc, đối thoại sinh động, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sử dụng ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị, tự nhiên. - G HI N H Ớ Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ ngay trên bờ vực của cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động đó được thể hiện qua một tình huống truyện độc đáo, cách kể chuyện hấp dẫn, miêu tả tâm lí khá tinh tế, dựng đối thoại sinh động. LUYỆN TẬP Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sầu sắc nhất cho anh chị ? Vì sao ? Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm.
Soạn bài Vợ Nhặt Kim Lân Câu 1 Bố cục 4 phần – Phần 1 từ đầu đến tự đắc với mình Tràng đưa người vợ nhặt về nhà. – Phần 2 tiếp đến đẩy xe bò về kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng. – Phần 3 tiếp đến nước mắt chảy ròng ròng Tình thương của người mẹ nghèo khó. – Phần 4 phần còn lại niềm tin vào tương lai tươi sáng. Mạch truyện sẽ được dẫn dắt hợp lý. Có thể nói tất cả các cảnh huống được thể hiện trong truyện đều khởi đầu từ việc anh Tràng nhặt được vợ giữa những ngày đói khủng khiếp ấy. Thế nhưng tác phẩm lại được mở ra từ cảnh Tràng đưa “vợ nhặt” về nhà gặp mẹ. Nếu tác giả đưa đoạn thứ hai lên trước theo trình tự thời gian thì truyện sẽ kém phần hấp dẫn hơn. Câu 2 Tình huống truyện – Tình huống truyện được gói gọn trong nhan đề của tác phẩm Vợ nhặt. Ấy là việc Tràng – một thanh niên nông dân nghèo, xấu xí, ế vợ bỗng nhiên nhặt được vợ dễ dàng trong nạn đói. Vợ là lại đi nhặt như đồ dùng là điều lạ lùng chưa từng thấy. – Trong cảnh đói kém, cái chết cận kề mà còn nghĩ đến chuyện lấy vợ, còn vui vẻ lo xây đắp tổ ấm gia đình là chuyện lạ thứ hai. Nhưng cũng chính nhờ cái lạ, cái độc đáo đó mới tạo ra sự hấp dẫn của truyện. => Tình huống truyện đã cho thấy thân phận buồn tụi của người lao động nghèo và bộc lộ tấm lòng người nông dân trong cảnh đời cơ hàn đói khát giàu tình nghĩa và luôn khát khao hạnh phúc, mái ấm gia đình. Câu 3 Nhan đề “Vợ nhặt” thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm “Nhặt” đi với những thứ không ra gì. Thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. Câu 4 Khi thể hiện niềm khao khát tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cơ và nhất là trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc – Lúc quyết định lấy vợ Thoạt đầu Tràng có chút phân vân, do dự Mới đầu anh chàng cũng chọn, nghĩ thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Nhưng rồi sau đó anh chàng đã tặc lưỡi “Chậc, kệ”. Điều này đúng như ý đồ của tác giả Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người nhà văn Kim Lân nói về truyện Vợ nhặt. – Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư. Phút này, Tràng như đã thành một con người khác, phớn phở lạ thường, môi cười tùm tỉm, mắt sáng hẳn lên, mặt vênh vênh tự đắc, nhưng cũng có lúc cứ “lúng ta lúng túng” đi bên vợ. Nhưng chủ yếu vẫn xúc cảm giác mới mẻ khác lạ mơn man như một bàn tay vuốt nhẹ. – Buổi sáng đầu tiên khi có vợ Tràng cảm thấy êm ả, lửng lơ, như người vừa trong giấc mơ đi ra xung quanh mình có cái gì thay đổi mới mẻ khác lạ. Từ cảm giác sung sướng hạnh phúc Tràng ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình “bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với căn nhà của hắn lạ lùng”. Một nguồn vui sướng phấn trấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ cho con sau này. Câu 5 Bà cụ Tứ – Tâm trạng mừng, vui, xót, tủi “vừa ai oán vừa xót thương cho số phận đứa con mình”. Đối với người đàn bà thì “lòng bà đầy xót thương” nén vào lòng tất cả bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình “Ừ, thôi thì các con cũng phải duyên phải số với nhau, u cũng mừng lòng”. – Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hy vọng “Tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem”. => Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ con người Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng sâu xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai, một tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn, … một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi để cho một bà cụ cập kề miệng lỗ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai. Câu 6 Đặc sắc nghệ thuật của truyện – Nghệ thuật tạo hình huống độc đáo. – Cách sử dụng ngôn ngữ bình dân tinh tế và có duyên. – Nghệ thuật tả tâm lí đặc sắc.
Trang trước Trang sau Trang trước Trang sau Giới thiệu Năm xuất bản Loại sách Sách giáo khoa Đọc toàn màn hình Tải sách Thông tin Bản quyền Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Năm xuất bản Số trang 226 trang Nguồn Hành trang số - NXB Giáo dục Tác giả Gợi ý cho bạn Ngữ văn 12 - Tập hai 217 trang Ngữ văn 12 - Tập một 225 trang Ngữ văn 12 - Tập một - Nâng cao 257 trang Ngữ văn 12 - Tập hai - Nâng cao 226 trang Sách scan Lớp 12 Hóa học 12 210 trang Hình học 12 113 trang Lịch sử 12 226 trang Ngữ văn 12 - Tập hai 217 trang Địa lí 12 210 trang Công nghệ 12 122 trang Giải tích 12 160 trang Sinh học 12 162 trang Giáo dục công dân 12 120 trang Giáo dục quốc phòng 12 105 trang Ngữ văn 12 - Tập một 225 trang Vật lí 12 234 trang Giải tích 12 - Nâng cao 231 trang Hình học 12 - Nâng cao 145 trang Ngữ văn 12 - Tập một - Nâng cao 257 trang Ngữ văn 12 - Tập hai - Nâng cao 226 trang Lịch sử 12 - Nâng cao 299 trang Địa lí 12 - Nâng cao 258 trang Sinh học 12 - Nâng cao 279 trang Vật lí 12 - Nâng cao 330 trang Hóa học 12 - Nâng cao 282 trang Tin học 12 0 trang
Trang trước Trang sau Trang trước Trang sau Giới thiệu Năm xuất bản 2019 Loại sách Sách giáo khoa Đọc toàn màn hình Tải sách Thông tin Bản quyền Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam Năm xuất bản 2019 Số trang 217 trang Nguồn Hành trang số - NXB Giáo dục Tác giả Gợi ý cho bạn Ngữ văn 12 - Tập hai 217 trang Ngữ văn 12 - Tập một 225 trang Ngữ văn 12 - Tập một - Nâng cao 257 trang Ngữ văn 12 - Tập hai - Nâng cao 226 trang Sách scan Lớp 12 Hóa học 12 210 trang Hình học 12 113 trang Lịch sử 12 226 trang Ngữ văn 12 - Tập hai 217 trang Địa lí 12 210 trang Công nghệ 12 122 trang Giải tích 12 160 trang Sinh học 12 162 trang Giáo dục công dân 12 120 trang Giáo dục quốc phòng 12 105 trang Ngữ văn 12 - Tập một 225 trang Vật lí 12 234 trang Giải tích 12 - Nâng cao 231 trang Hình học 12 - Nâng cao 145 trang Ngữ văn 12 - Tập một - Nâng cao 257 trang Ngữ văn 12 - Tập hai - Nâng cao 226 trang Lịch sử 12 - Nâng cao 299 trang Địa lí 12 - Nâng cao 258 trang Sinh học 12 - Nâng cao 279 trang Vật lí 12 - Nâng cao 330 trang Hóa học 12 - Nâng cao 282 trang Tin học 12 0 trang
1. Tìm hiểu chung a. Tác giả Kim Lân Tên khai sinh Nguyễn Văn Tài 1920- 2007. Quê làng Phù Lưu, tỉnh Bắc Ninh. Kim Lân là cây bút truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông thường là khung cảnh nông thôn, người nông dân. Ngoài viết văn ông còn làm báo, diễn kịch, đóng phim. Tác phẩm chính Nên vợ nên chồng 1955, Con chó xấu xí 1962. Năm 2001, ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. b. Truyện ngắn Vợ nhặt Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác “Vợ nhặt” viết năm 1955 được in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” 1962. Truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” tác phẩm viết sau CMT8 nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo. Sau khi hoà bình lập lại 1954 tác giả dựa vào cốt truyện cũ đặt tên là Vợ nhặt. Bố cục 4 phần Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt” Nhan đề đã thâu tóm giá trị nội dung tư tưởng tác phẩm. Từ nhan đề ta thấy thân phận con người bị rẻ rúng như cái rơm, cái rác, có thể “nhặt” ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng “nhặt” vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh. 2. Đọc- hiểu văn bản a. Tình huống truyện độc đáo Tràng là một chàng trai sống ở xóm ngụ cư nghèo mà lại xấu xí, thô kệch lấy được vợ giữa nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử. Tình huống Tràng nhặt được vợ đã làm cho mọi người vô cùng ngạc nhiên Trẻ con xóm ngụ cư ngạc nhiên. Người lớn cũng ngạc nhiên. Mẹ của Tràng cũng ngạc nhiên. Bản thân Tràng cũng không ngờ được, cứ ngỡ ngàng như không phải -> một tình huống éo le, giàu kịch tính, rất độc đáo. Giá trị hiện thực tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói. Giá trị nhân đạo Tình nhân ái cưu mang đùm bọc lẫn nhau, khát vọng hướng tới cuộc sống và hạnh phúc. Trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn muốn cứ được là con người. b. Diễn biến tâm trạng các nhân vật Người vợ nhặt Là cô gái không tên, không gia đình, quê hương, bị cái đói đẩy ra lề đường có số phận nhỏ nhoi, đáng thương. Thị theo Tràng sau lời nói nửa đùa nửa thật để chạy trốn cái đói. Cái đói đã làm thị trở nên chao chát, đanh đá, liều lĩnh, đánh mất sĩ diện, sự e thẹn, bản chất dịu dàng. Nhưng vẫn là người phụ nữ có tư cách Trên đường theo Tràng về, cái vẻ “cong cớn” biến mất, chỉ còn người phụ nữ xấu hổ, ngượng ngừng và cũng đầy nữ tính. Thị ra mắt mẹ chồng trong tư thế khép nép và tâm trạng lo âu, băn khoăn, hồi hộp. Thị có sự thay đổi khi tìm thấy sự ấm áp của gia đình Trở thành một người vợ đảm đang. Người con dâu ngoan khi tham gia công việc nhà chồng một cách tự nguyện, chăm chỉ. Chính chị cũng thắp lên niềm tin và hi vọng trong hoàn cảnh tối tăm đó người đói. => Góp phần tô đậm hiện thực nạn đói và đặc biệt là giá trị nhân đạo của tác phẩm dù trong hoàn cảnh nào, người phụ nữ vẫn khát khao một mái ấm gia đình hạnh phúc. Nhân vật Tràng Có vẻ ngoài thô kệch, xấu xí, thân phận nghèo hèn,… Nhưng có tấm lòng hào hiệp, nhân hậu sẵn lòng cho người đàn bà xa lạ một bữa ăn giữa lúc nạn đói, sau đó đưa về đùm bọc, cưu mang. Lúc đầu Tràng cũng có chút phân vân, lo lắng “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi, sau một cái “tặc lưỡi”, Tràng quyết định đánh đổi tất cả để có được người vợ, có được hạnh phúc -> Sự khao khát hạnh phúc lứa đôi. Quyết định giản đơn nhưng chứa đựng tình thương đối với người gặp cảnh khốn cùng. Trên đường về Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phơ” khác thường. Anh rất vui, lòng lâng lâng khó tả “Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. “Lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai bên kia người đàn bà”. Dường như quên đi cảnh sống ê chề, tối tăm; quên đi cái đói đang đe dọa,… khi có sự xuất hiện của người vợ nhặt. Buổi sáng đầu tiên có vợ Tràng cảm nhận có một cái gì mới mẻ êm ái, lơ lửng như trong mơ Tràng thay đổi hẳn Thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của mình một cách lạ lùng. Cảm thấy nên người, thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho gia đình. Biết hướng tới một cuộc sống tương lai tốt đẹp hơn. => Những con người đói khát gần kề cái chết vẫn khao khát hạnh phúc gia đình, vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau và luôn có niềm tin vào tương lai. Bà cụ Tứ Một bà lão già nua, ốm yếu, lưng khòng vì tuổi tác. Tâm trạng bà cụ Tứ Khi nhận thấy thái độ vồn vã khác thường của con phấp phỏng, lo âu. Ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng người đàn bà xa lạ chào mình bằng u. Sau lời giãi bày của Tràng, bà cúi đầu nín lặng, không nói và hiểu ra. Trong lòng chất chứa biết bao suy nghĩ Buồn tủi khi nghĩ đến thân phận của con phải lấy vợ nhặt. Lo vì đói, vợ chồng nó có sống qua nổi cái nạn đói này ko. Thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới lấy đến con trai mình mà không tính đến nghi lễ cưới. Tủi vì chưa hoàn thành bổn phận người mẹ lo vợ cho con trai. Lo lắng khi nghĩ đến tương lai của con. Nén vào lòng tất cả, bà dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình Từ tốn căn dặn nàng dâu mới -> Xót thương, lo lắng cho cảnh ngộ của dâu con. Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới Rạng rỡ hẳn lên. Cùng với nàng dâu, bà thu dọn, quét tước nhà cửa. Bữa cơn ngày đói thật thảm hại nhưng “cả nhà ăn rất ngon lành”. Bà toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui, chuyện làm ăn với con dâu -> tìm mọi cách để nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các con. => Bà là một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh, tiêu biểu của người mẹ nghèo VN. c. Nghệ thuật Xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn. Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị, chặt chẽ. Khéo léo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Dựng cảnh chân thật, sinh động, đặc sắc cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói,… Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế nhưng bộc lộ tự nhiên, chân thật. Ngôn ngữ nông thôn mộc mạc, giản dị, gần với khẩu ngữ nhưng được chọn lọc kĩ, toạ nên sức gợi.
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án Ngữ văn 12 bài 17 Vợ nhặt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênGIÁO ÁN Bài 17 VỢ NHẶT Môn Văn Lớp 12 Tiết PPCT 29 + 30 Ngày soạn A – MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU Giúp học sinh thấy thảm kịch mà nhân dân ta đã phải chịu đựng đồng thời thấy được rằng chỉ có lòng nhân ái và sức mạnh đấu tranh của nhân dân mới có thể giúp những người khốn khổ vượt qua tai hoạ ghê gớm ấy. Nghệ thuật viết truyện Tình huống bất ngờ,giọng kể hóm hỉnh,ngôn ngữ mộc mạc gần với đời thường mà có sức lôi cuốn,gợi cảm. Chuẩn bị Giáo án,sách giáo khoa,sách giáo viên,bài soạn của học sinh. B – LÊN LỚP Thời gian Hoạt động của Thầy và trò Nội dung Ghi chú bổ sung 1- Ổn định lớp. 2- Kiểm tra bài củ,nhận xét cho điểm. 3- Dạy bài mới. + Gọi học sinh giới thiệu về tác giả và tác phẩm. +Quang cảnh anh Tràng đưa vợ về được tác giả miêu tả như thế nào ? Thái độ của mọi người ra sao ? Em nghĩ sao về tình huống đó ? +Hoc sinh phát hiện,thảo luận trả lời. Giáo viên hiệ chỉnh nếu cần . +Em nghĩ sao về chuyện anh Tràng có vợ ? Có thật là duyên số như lời Tràng nói không ? +Hoc sinh phát hiện,thảo luận trả lời. Giáo viên hiệ chỉnh nếu cần . +Em nghĩ sao về cô gái không tên,vợ Tràng ? +Hoc sinh phát hiện,thảo luận trả lời. Giáo viên hiệ chỉnh nếu cần . +Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ . Em nghĩ sao về bà mẹ nghèo này ? +Hoc sinh phát hiện phân tích,thảo luận trả lời. +Phân tích giá trị nhân đạo nếu có thể thì phân tích giá trị nhân văn luôn của tác phẩm . Em nghĩ sao về phần kết của tác phẩm . + Phân tích nghệ thuật kể chuyện độc đáo của tác giả. Tình huống,giọng vă,ngôn ngữ. +Cảm nhận chung về tác phẩm . I – ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ,TÁC PHẨM Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài,sinh 01 – 01 - 192,quê ở Bắc Ninh. Ông viết truyện từ năm 1941,tác phẩm của ông phản ánh không khí tiêu điều của nông thôn Việt Nam,cuộc sống lam lủ vất vã của người nông dân,tái hiện những sinh hoạt văn hoá phong phú ở thôn quê đánh vật,chọi gà,thả chim. Sau cách mạng ông tiếp tục làm báo,viết văn. Ông chuyên viết truyện ngắn và vẫn viết về cuộc sống con người nông thôn bằng tình cảm của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Tiền thân của Vợ Nhặt là truyện dài “Xóm ngụ cư” viết ngay khi cách mạng thành công nhưng bị mất bản thảo. Năm 1954,khi hòa bình lập lại,tác giả dựa vào cốt truyện cũ viết lại. II – PHÂN TÍCH 1 – Quang cảnh anh Cu Tràng đưa vợ về gặp mẹ + Khung cảnh ảm đạm,đói khát,chết chóc bao trùm khắp cái xóm ngụ cư. Cái chết được nhìn thấy,nghe thấy,ngửi thấy + Cái xóm ngụ cư ấy bổng xôn xao lên khi Cu Tràng đưa vợ về. Những đứa trẻ gào lên,người trong xóm đứng cả trong ngưởng cửa nhìn ra bàn tán xôn xao,có người chọc ghẹo,có người thở dài lo lắngMột cái gì khác lạ,tươi mát thổi vào cái xóm ngụ cư đói khát dù là trong khoảnh khắc. * Mở đâu câu chuyện là khung cảnh đói khát,chết chóc thật ảm đạm. Đó chính là hình ảnh làng quê Việt Nam những năm trước cách mạng. Cái việc anh Cu Tràng dắt vợ về làm cho mọi người ngạc nhiên,viu buồn lẫn lộn. Đó quả là một sự éo le bởi lẽ hôn sự vốn là chuyện vui,hơn nữa một người xấu xí,nghèo khổ như Tràng mà cũng có được vợ thì cũng là đáng mừng. Nhưng lo là không biết có nuôi nổi nhau qua cái thời buổi này không vả lai nếu không gặp buổi khốn khó như vậy thì liệu có ai chấp nhận lấy Tràng khôngDẫu ssao thì việc ấy cũng đem lại cho cái xóm ngụ cư một chút sinh khí dù là trong khoảnh khắc,đó là cái khoảnh khắc thật đáng quí ví nó cho ta thấy rằng trong hoàn cảnh tăm tối nhất,sự sống vẫn tồn tại như một thách thức với hoàn cảnh. 2 – Chuyện duyên nợ của Tràng + Xét từ phía anh Tràng Ngoại hình xấu xí,thô kệch,vụng về. Hoàn cảnh gia đình nghèo khổ,,túng thiếu. Không ai tin là Tràng có thể lấy được vợ xóm giềng từ người lớn đến trẻ con ,bà cụ tứ cũng không tin thậm chí cả Tràng cũng không ngờ . Anh chỉ tầm phơ,tầm phào có hai bận thật ra là có một bận thôi,bận sau là dẫn về luôn rồi . Cái nghèo chính là duyên cớ khiến họ gặp nhau .Tất cả bắt đầu từ sự bông đùa rồi mắc nợ đẩy xe tiếp ,rồi không nở từ chối khi cô nàng quyết định theo vềTràng cảm thấy chỉ còn lại tình cảm giữa mình và người đàn bà đi bên cạnh. Đó là sự cảm tình người. + Xét từ phía cô gái không tên Đẩy xe tiếp,ăn bốn dĩa bánh đúc ngon lànhMột sự liều lĩnh bất chấp thông lệ đáng thương. Hành trình về nhà chồng thật là buồn,thị lẳng lặng mà đi,rồi những tiếng thở dài thị có cười hai lần . Tất cả cũng bắt đầu từ cái nghèo. Người ta giàu,người ta nghênh hôn giá thú. Hai đứa mình nghèo dụ dổ nhau đi. + Bà cụ Tứ Ngỡ ngàng không thể ngờ con mình lại có vợ. Rồi bà nhận ra mọi việc và bà xót xa,xót xa cho con,xót xa cho trách nhiệm làm mẹ của mình,xót xa cho đời con gái của đứa con dâu tội nghiệp,lo lắng cho những ngày sắp tớiBà tìm lời lẽ an ủi động viên,bà vẽ ra một tương lai phía trước,bà cố giấu đi những giọt nước mắt,bà cố cười trong bửa cơm thảm hạiTất cả là vì con. +Tương lai cũng đã gần kề Lời báo tin của cô con dâu,tâm trạng anh Tràng,hình ảnh lá cờ và từng đoàn người đói lủ lượt kéo nhau trên đê * Quả đúng là duyên kiếp, “chẳng qua nó cũng là cái số cả”.Cái chi tiết Tràng nhặt vợ thật độc đáo có một không lẽ duyên số của hai người chính là cái nghèo,cùng nghèo khổ,xấu xí,vợ Tràng cũng nghèo lại cũng chẳng xinh xắn gì. Họ đến với nhau thật là cảm động và không kém phần lãng mạn. Có lẽ đó cũng là cách để nương tựa vào nhau mà sống qua cái buổi khốn khó. Chi tiết này làm toát lên giá trị nhân đạo và nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Tình người vẫn ngời sáng. Dù sao họ vẫn có quyền yêu và được yêu. Người phụ nữ nghèo,liều lỉnh,táo bạo vì cuộc sống mà nhắm mắt đưa chân theo Tràng. Hành trình về nhà chồng của cô gái thật đáng thương. Bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo hết lòng lo lắng cho con. Trong căn nhà nhỏ của Tràng đã có nhiều thay đổi. Sự đảm đang chu đáo của hai người phụ nhử đã khơi dậy một niềm hy vọng xa xôi. Lời nói của cô gái với mẹ chồng trong sáng ngày đầu tiên là báo tin Việt Minh phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Tràng trở nên vui vẻ,trong tâm trí Tràng đã thấp thoáng hình ảnh của tương lai. 3 – Nghệ thuật viết truyên độc đáo của tác giả Tình huống bất ngờ Nhặt vợ,thủ pháp tương phản. Giọng kể hóm hỉnh,trữ tình. tần số của tiếng cười là rất cao Ngôn ngữ chân thật,gần gủi với đời thường mà sâu sắc gợi cảm,lôi cuốn. có đọan bình của tác giả * Có thể nói “Vợ nhặt ”là một tác phẩm trữ tình độc đáo. Tác giả đã dựng nên một tình huống truyện bất ngờ,độc đáo. Thủ pháp tương phản đuợc sử dụng rất hiệu ngữ miêu tả chân thực sinh động,giọng văn hóm hỉnh mà sâu sắc,gần gủi với đời thường mà lôi cuốn hấp dẫn lạ kỳ. III – TỔNG KẾT Truyện đã phản ánh hiện thực ảm đạm của làng quê Việt Nam những năm trước cách mạng,nan đói khủng khiếp và số phận con người thật đáng phẩm đã thể hiện tinh thần nhân đạo,nhân văn sâu sắc. Trong hòan cảnh khó khăn,tình người vẫn ngời sáng,con người vẫn luôn khát khao vươn tới hạnh phúc,vẫn hy vọng vào một tương lai tốt đẹp. Đẹp làm sao khi những con người đói rách tả tơi vẫn nương tựa vào nhau,cùng nhau nhen lên ngonï lửa hy vọng. Trên cái nền của sự đói rách và chết chóc,tình người,tình yêu vẫn tồn tại và vân đâm chồi nảy lá như một sự thách thức với hoàn cảnh. Nhà văn đã trân trọng cảm thông,thấyđược phần tốt đẹp ở những con người đói khổ,thấy được sức mạnh tiềm tàng nơi họ và chỉ ra cho họ con đường tự giải thoát . * Dặn dò - Đọc lại truyện và phát hiện thêm những chi tiết bổ sung cho các ý của bài. - Chuẩn bị bài tiếp theo Tiếng hát con tàu. Người soạn NGUYỄN PHÚC HẬU
tác phẩm vợ nhặt sách giáo khoa 12